Học tiếng trung tốt tại Hà Nội, Tp.HCM

[Thành ngữ tiếng Trung] Bách niên giai lão – Tientrung.com

Phạm Dương Châu 14.08.2020 Thành ngữ tiếng Trung

Những bạn đam mê tiếng Trung chắc hẳn không còn lạ lẫm với câu thành ngữ “Bách niên giai lão” rồi nhỉ? Nhưng ý nghĩa và cách dùng của thành ngữ này bạn đã nắm kĩ chưa? Nếu chưa thì hôm nay hãy cùng Tiếng Trung Dương Châu khám phá thành ngữ tiếng Trung này nhé! 

Bách niên giai lão trong tiếng Trung là gì ?

Từ xa xưa từ “giai lão” đã được xuất hiện nhiều trong những bộ kinh thư hay bài thơ cổ trong tiếng Hán. Bộ Kinh Thi – một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo, được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu (thế kỷ XI-771 TCN) đến giữa thời Xuân Thu (771-476 TCN) đã từng nhắc đến từ “giai lão”. Trong bài Kích cổ 4 (Đánh trống 4), thiên Bội phong của sách này có câu:

“Tử sinh khiết thoát,

 Dữ tử thành thuyết.

Chấp tử chi thủ

Dữ tử giai lão

Dịch nghĩa:

Chết sống hay xa cách

Đã cùng nàng thành lời thề ước.

Ta nắm tay nàng (Hẹn ước)

Sẽ sống chung với nhau đến tuổi già.

Tạ Quang Phát dịch thơ:

Lúc tử sinh hay khi cách biệt

Chẳng bỏ nhau lời quyết thệ rồi.

Cầm tay nàng, hẹn mấy lời

Sống bên nhau mãi đến hồi già nua.

 Vậy “Bách niên giai lão” (tiếng Trung: 百年偕老, phiên âm: Bǎinián xiélǎo) nghĩa là gì? Chúng mình cùng nhau phân tích nghĩa từng từ nhé: 

– Bách niên (tiếng trung: 百年, phiên âm:Bǎinián) trăm năm, năm không phải là con số cụ thể mà trăm năm ở đây mang nghĩa biểu thị cho đời một con người, cho tuổi thọ của một người.

– Giai lão (tiếng Trung:偕老, phiên âm:xiélǎo) cùng nhau chung sống đến già

Như vậy, thông qua phân tích từng từ chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của thành ngữ “Bách niên giai lão” ngụ ý vợ chồng cùng nhau sống đến trăm tuổi, bên nhau đến già. Dùng để chỉ toàn bộ thời gian mà một người sống trên cõi đời này, nói chung. “Trăm năm trong cõi người ta” trích Truyện Kiều – Nguyễn Du. Người xưa có câu bách tuê vị kì, nghĩa là, người ta chỉ sống được đến trăm tuổi là cùng. Nhưng thực tế có mấy ai sống được đến trăm tuổi. Bảy mươi tuổi cũng đã là “xưa nay hiếm” rồi! .Thành ngữ bách niên giai lão dùng trong lời chúc (cho các đôi vợ chồng lúc làm lễ kết hôn) được hạnh phúc lâu bền, chung sống cùng nhau đến trọn đời.

Theo Nguyễn Đình Thi trong “Vỡ bờ”: “Bữa cơm vậy mà ai cũng vui, ai cũng chúc cô dâu chú rể bách niên giai lão”  

Di hòa vi quý 

Ý nghĩa của thành ngữ “Bách niên giai lão”

Thành ngữ “Bách niên giai lão” thường được xuất hiện khá nhiều trong những bộ phim cổ trang nên hầu hết các bạn mê phim cổ trang đều đã biết ý nghĩa của thành ngữ này. “Bách niên giai lão” thường được dùng để chúc mừng tân lang tân nương, những cặp vợ chồng trong ngày cưới của họ ngụ ý mong cho đôi trẻ sẽ luôn luôn hòa thuận có thể cùng nhau đi tới già. 

Cách dùng của thành ngữ “Bách niên giai lão” 

Để hiểu về cách dùng của thành ngữ này, hãy nghe Tiếng Trung Dương Châu kể câu chuyện này cho các bạn nha: “Hôm đó khá đông học sinh đang xem phim truyện. Thấy cảnh một thanh niên chào và chúc bà cụ: “Cháu chúc bà bách niên giai lão!” ở trong phim, thì cả tốp bạn đã nổ ra một cuộc bàn cãi.
Một cô gái bảo: “Nói với cụ bà mà lại dùng “giai lão” là không đúng, là lầm lẫn giới tính. Cách nói này chỉ dùng để chúc đàn ông, con trai thôi”.
Nhiều ý kiến nhao nhao đồng tình, rồi một thanh niên đứng phắt dậy bảo: “Tớ lại nghĩ khác. Sao bạn lại hiểu giai trong bách niên giai lão là con giai? Giai ở đây là yếu tố Hán – Việt có nghĩa “đẹp, tốt”, như các từ giai nhân (người đẹp), giai điệu (điệu nhạc hay, đẹp), giai thoại (câu chuyện hay, lí thú),… Và như vậy người ta chúc bà cụ giai lão (tức là đẹp lão) là hoàn toàn phù hợp. Sao lại không”.
Lặng đi một lúc với nhiều tiếng xì xào, rồi ai đó cất giọng: “Ê, ê… , “học giả” ơi, thế giai cấp là gì? Là “cấp đẹp” à? Hay “cấp con giai”? Xin “học giả” chỉ giáo cho!”. Khó quá, đến đây thì như ong vỡ tổ. Cuối cùng họ thống nhất để ngày mai sẽ hỏi cô giáo trong giờ tiếng Việt.
Ngày hôm sau nghe chuyện, cô giáo cười rất vui:
– Cô rất mừng, vì các em quan tâm tới cách dùng từ ngữ cả trong lúc vui chơi. Bách niên giai lão là thành ngữ hay dùng, nhưng nó là thành ngữ Hán – Việt, hiểu kĩ thì dùng sẽ rất hay. Đây là thành ngữ gốc Hán, Đại từ điển Hán ngữ và Từ điển Việt – Hán của Lôi Hàng, của Hà Thành đều ghi rõ bách niên giai lão. Chúng ta tìm hiểu kĩ hơn các yếu tố cấu tạo. Trong bách niên giai lão thì bách là “một trăm” (bách hoá, bách khoa, bách phát bách trúng,…); niên là “năm, hoặc tuổi” (niên học, niên khoá,..; bạn vong niên, vị thành niên,…); lão là “già, người già” (lão hoá, lão suy, …; bô lão, dưỡng lão, kính lão đắc thọ); chỉ có giai là khó hiểu. Tất nhiên ở đây giai không phải là “con giai”, một yếu tố thuần Việt, cũng không phải là “đẹp”. Yếu tố giai này có nghĩa là “cùng nhau”. Và bách niên giai lão có nghĩa “cùng sống với nhau đến trăm tuổi, đến lúc già”. Hiện nay, thành ngữ thường dùng trong đám cưới hay chúc vợ chông mới cưới, mong họ có hạnh phúc bền lâu, sống với nhau đến lúc đầu bạc răng long. Ví dụ: Chúc cô dâu chú rể bách niên giai lão; Kinh Đô chúc tân lang và tân nương bách niên giai lão…”
Trong tiếng Hán giai lão đã xuất hiện từ bộ Kinh thi. Trong bài (Kích cổ: Đánh trống; thiên Bội phong) có câu “Chấp tử chi thủ, Dữ tử giai lão: Nắm chặt tay em, Cùng em (sống đến già)”, tả tâm trạng của người nước Vệ khi đi chinh chiến xuống phía Nam vẫn luôn nhớ mong, thề thốt với người yêu. Sau đó giai lão thường được dùng để nói về tình cảm vợ chồng thuỷ chung, hạnh phúc.
Bách niên giai lão đã được dùng trong câu “Chỉ nguyện nhĩ môn phu phụ bách niên giai lão, đa tử đa tôn: Chỉ mong tình nghĩa chồng vợ bách niên giai lão, đông con nhiều cháu” ở tác phẩm Chuyện làng Nho của Ngô Kính Tử.

Còn bách niên (trăm năm) cũng được dùng để nói về tình nghĩa vợ chồng bền chặt, dài lâu: “Chữ đồng lấy đấy làm ghi, Mượn điều thấy tịch mà thề bách niên”. (Cung oán ngâm khúc¸Nguyễn Gia Thiều) trong đó thất tịch: đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch, theo truyền thuyết Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Hoặc lời Phạm Tải nói với Ngọc Hoa trong Truyện nôm Phạm Tải Ngọc Hoa: “Tưởng là vẹn đạo xướng tuỳ, Cho nên vàng đá chót thề bách niên”. Tuy nhiên, bách niên cũng như trăm năm trong tiếng Việt còn có nghĩa “một đời, suốt đời”. Ví dụ ở bài Lên cao của Đỗ Phủ có câu: Vạn lí bi thu thường tác khách, Bách niên đa bệnh độc đăng đài; Nhà thơ Nam Trân dịch Thu quạng nghìn khơi lòng khách nao? Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn. Như vậy, cần dựa vào cảnh huống cụ thể để hiểu đúng được nghĩa của bách niên.
Trở lại lời chúc của anh thanh niên nọ trên phim truyền hình. Khi chúc cụ bà bách niên giai lão người chúc đã có hai chỗ sai. Thứ nhất, anh ta hiểu sai thành ngữ Hán – Việt này: chỉ nhận biết đại khái ở đây có “trăm tuổi (bách niên)”, có “già (lão)”; người già được trăm tuổi là quá tuyệt vời. Rồi chẳng cần biết giai là gì, anh đã thay câu chúc thông thường “Chúc bà mạnh khoẻ sống lâu” bằng bách niên giai lão để nghe có vẻ súc tích, uyên thâm. Thứ hai, từ cách hiểu sai thành ngữ dẫn tới cảnh huống dùng thành ngữ sai. Bách niên giai lão (“cùng sống với nhau đến già”) luôn luôn nói về quan hệ tình cảm, cảnh chung sống hạnh phúc chọn vẹn của vợ chồng, còn anh thanh niên lại dùng để chúc tuổi thọ cụ già, tức nói về một người, một đối tượng nào đó. Việc không hiểu hoặc hiểu không đúng yếu tố giai (mang nghĩa là cùng nhau; một người không thể chúc cùng nhau) dẫn tới cách dùng sai như trên.
Tuy nhiên, vẫn có thể gặp trong tiếng Việt, nhất là văn thơ cổ, thành ngữ bách niên giai lão với phạm vi nghĩa rộng hơn. Ví dụ, trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn có câu: “…chẳng những gia quyến của ta được yên ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão…” thì bách niên giai lão nói về cuộc sống gia đình hạnh phúc, bền lâu, chứ không còn đơn thuần chỉ là lời chúc. Hoặc, một câu khác: “Một thơ giai lão lên lời chúc, Đôi chữ thừa loan mượn chén khuyên.” (Thơ nôm “Lâm tuyền kì ngộ”, bài “Tôn Sinh bái tạ phụ mẫu”). Các tác giả phiên âm và giới thiệu (Đinh Gia Khánh, Nguyễn Ngọc San) đã chú giải: “giai lão bởi chữ bách niên giai lão “cùng sống trăm năm đến tuổi già”; ý nói: Tôn Sinh làm thơ chúc mừng cha mẹ cùng vui sống tuổi già”. Lúc này bách niên giai lão không chúc hạnh phúc lứa đôi đối với người mới cưới, còn trẻ, mà nhấn mạnh ý “cùng nhau vui sống đến già hay ở tuổi già”.
Song, cũng phải thừa nhận bách niên giai lão là thành ngữ khó, chữ giai với nghĩa “cùng nhau” chỉ được tiếng Việt mượn dùng duy nhất trong thành ngữ này, chưa đi vào tiềm thức người Việt. Nó khác với chữ giai là “đẹp, tốt đẹp” trong giai âm, giai điệu, giai nhân, giai phẩm, giai thoại, giai tế, …, và chữ giai là “bậc” trong giai cấp, giai tầng, giai đoạn, âm giai, văn giai,.. Do vậy, hiện tượng dùng sai bách niên giai lão như anh thanh niên nọ vẫn lác đác gặp phải trong đời sống. Chẳng hạn, trên mạng Internet (Google, ngày 4/12/06) vẫn gặp những câu viết sai như: *Cụ sống vui vẻ và thọ đến bách niên giai lão; *Ước mơ bách niên giai lão của con người; *Bách niên giai lão với người già, hay ăn chóng lớn với trẻ nhỏ, v,v. Hiện tượng này, trước đây đã có lần Bác Hồ phê bình thân mật các nhà báo. Lần đó “Bác cười và nhắc lại với mọi người: Họ chúc Bác bách niên giai lão mà báo cũng đăng đấy!” (dẫn theo Thành ngữ tiếng Việt, Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, NXB Khoa học xã hội, H. 1978, tr49). Để dùng đúng các ví dụ trong các cảnh huống nói trên, cũng như trong câu Bác Hồ đã nhắc nhở, cần thay bách niên giai lão bằng trăm tuổi, hay sống lâu trăm tuổi. 

Ví dụ về thành ngữ  “Bách niên giai lão”

1. Tiếng Trung: 你们夫妻恩深义重,誓必百年偕老。

Phiên âm: Nǐmen fūqī ēn shēn yì zhòng, shì bì bǎinián xiélǎo.
Dịch nghĩa: Hai bạn tình ý mặn nồng, thề bên nhau đến già.

2. Tiếng Trung: 各位宾客都会吃一块蛋糕祈求新婚夫妇百年偕老,子孙满堂。

    Phiên âm: Gèwèi bīnkè dūhuì chī yīkuài dàngāo qíqiú xīnhūn fūfù bǎinián xiélǎo, zǐsūn mǎntáng
    Dịch nghĩa: Các vị khách mời đều ăn một miếng bánh ngọt, cầu chúc cho cô dâu chú rể bạch đầu giai lão, con đàn cháu đống)

3. Tiếng Trung: 正要与你百年偕老,怎生说这样不祥的话? 

    Phiên âm: Zhèng yào yǔ nǐ bǎinián xiélǎo, zěn shēng shuō zhèyàng bùxiáng dehuà?
    Dịch nghĩa: Anh còn muốn bên em đến đầu bạc răng long, sao em lại nói ra những lời không may như thế?

4. Tiếng Trung: 祝你们俩夫妻和好,百年偕老!

    Phiên âm: Zhù nǐmen liǎ fūqī hé hǎo, bǎinián xiélǎo! 
    Dịch nghĩa: Chúc hai bạn vợ chồng hòa thuận, bên nhau đến đầu bạc răng long!

5. Tiếng Trung: 我曾对她发过誓,要两人百年偕老。

    Phiên âm: Wǒ céng duì tā fāguò shì, yào liǎng rén bǎinián xiélǎo.
    Dịch nghĩa: Tôi từng thề với cô ấy, rằng muốn ở bên cô ấy đến khi đầu bạc răng long.

Tổng hợp các thành ngữ tiếng Trung hay dùng 

Rate this post
0 0 votes
Xếp hạng bài viết
Theo dõi
Thông báo
guest
0 Bình luận
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả các bình luận
TOP